CHUYỂN
ĐỔI PHƯƠNG THỨC PHÁT TRIỂN TỪ "NÂU” SANG "XANH”
Với việc ban hành hai văn bản pháp quy quan trọng là Quyết định số
432/QĐ-TTg, ngày 12/04/2012phee duyệt Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam
giai đoạn 2011-2020 và Quyết định số 1393/QĐ-TTg, ngày 25/9/2012 phê duyệt
Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh, Thủ tướng đã khẳng định rõ, trọng tâm
hàng đầu trong chương trình nghị sự của Chính phủ là chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, tái câu trúc kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh và phát triển bền
vững. Kết quả này xuất phát từ đòi hỏi mang tính cách mạng, thời đại, thể hiện
xu hướng bắt nhịp "cuộc chơi” toàn cầu của Việt Nam trong tư duy chính sách và
thực tiễn hành động.
Xét về mặt học thuật, "Kinh tế xanh”
là sự nâng cấp của "Kinh tế môi trường” (Environmental Economy), mở ra một
hướng tiếp cận rộng hơn cho cả những điều chỉnh từ chính sách kinh tế vĩ mô đến
điều hành thực hiện trong kinh tế vi mô (nhất là đối với chính sách công trong
đầu tư cho khôi phục tại nguyên, môi trường, cùng sự tăng trưởng về thu nhập,
cũng như việc làm thông qua đàu tư của Nhà nước và tư nhân), làm giảm thiểu
phát thải cacbon, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Tuy mới ra đời, nhưng nhiều quốc gia
đã và đang thực hiện theo hướng xanh hóa nền kinh tế, thậm chí các chỉ tiêu đo
lường đã được một số quốc gia áp dụng như: GDP xanh (Green GDP) cho chỉ tiêu kinh
tế vĩ mô; những sản phẩm đã đăng ký và được cấp chứng chỉ ISO-14000, những sản
phẩm xanh được cấp nhãn sinh thái (Eco-label)… Đến nay, các quốc gia cũng cơ
bản nhất trí mục tiêu hướng tới của các nền kinh tế toàn cầu là "Kinh tế xanh”,
trong đó tập trung vào "Sản xuất và tiêu dùng bền vững”.
NHẬN DIỆN
CÁC CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TẠI VIỆT NAM
Là một trong 5 nước chịu tác động
nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, việc hướng tới nền kinh tế xanh của Việt Nam
là lựa chọn hợp lý. Tuy nhiên, để chuyển đôit thành công sang phương thức phát
triển "xanh”, Việt Nam cần phải nhận diện rõ những cơ hội và thách thức. Cụ
thể:
Về cơ hội:
- Lợi thế nằm trong khu vực nhiệt đới, gió mùa Đông Nam Á, có nguồn
năng lượng mặt trời dồi dào, năng lượng gió phong phú, sinh vật tăng trưởng
nhanh… là cơ hội cho Việt Nam tham gia vào các chương trình mục tiêu thiên niên
kỷ để hướng tới nền kinh tế xanh. Vai trò bất biến của cao ngueyen Bắc bộ và
dãy Trường Sơn đối với việc đảm bảo an ninh nguồn nước, cung cấp nơi cư trú và
duy trì văn hóa bản địa, kiểm soát thiên tai, như: lũ lụt, lở đất, xói mòn và
bồi tụ đất đai trong Thỏa thuận toàn cầu của nền Kinh tế Xanh (Global Green New
Deal), là một lợi thế của các dịch vụ hệ sinh thái có thể được ước tính, và giá
trị hiện tại của chúng là một phần cơ bản của "vốn tự nhiên” của Việt Nam.
- Hiện nay sự quan tâm lớn nhất của cộng đồng thế giới là biến đổi
khí hậu. Nhằm giảm thiểu và thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh
đang là những xu hướng mới trong lộ trình tiến tới "Nền kinh tế xanh”. Việt Nam
sẽ đón nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của các quốc gia và các tổ chức quốc tế
trên thế giới khi hướng tới xây dựng nền kinh tế xanh.
- Việt Nam đang có những thay
đổi cơ bản sau 26 năm đổi mới và mở cửa, đang tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hướng tới một sự phát triển vì con
người. Những yếu tố đó được thực hiện trong một môi trường chính trị ổn định là
cơ hội tốt cho triển khai thực hiện nền kinh tế xanh.
- Hướng tới một nền kinh tế xanh sẽ nhận được sự đồng thuận cao của
xã hội vì những lý do sau: (1) Những vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường và
suy giảm tài nguyên trong thời gian phát triển vừa qua đã tác động đến sự phát
triển của đất nước; (2) Nhiều lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam như: năng
lượng, nguồn nước, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật, ngành xây dựng và đô thị,
giao thông vận tải… đã thể hiện nhiều hạn chế, yếu kém mang tính hệ thống, buộc
Chính phủ đang phải cấu trúc lạo những lĩnh vực này; (3) Sau một thời gian phát
triển từ khi đổi mới và mở cửa, người dẫn đã nhận thức được sự trả giá của mô
hình phát triển của nền "Kinh tế nâu”.
- Nếu khủng hoảng lương thực trong ba thập niên tới, Việt Nam có
nhiều tiềm năng trở thành điểm chủ chốt trong chuỗi đảm bảo an ninh lương thực
cho thế giới. Có thể gọi đây là "quyền lực xanh” của Việt Nam trong tương lai,
xây dựng trên nền tảng của một nền kinh tế hiện nay có lợi thế cao về xuất khẩu
nông, lâm, thủy sản trên thế giới.
Về thách thức:
Một là, về nhận thức, hiểu thế nào là một nền "Kinh tế xanh” hiện
nay ở Việt Nam vẫn còn hết sức mới mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ
biến rộng rãi kiến thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách,
các doanh nghiệp và người dân. Hiện nay chưa có văn bản pháp lý nào của Việt
Nam khẳng định nội hàm "Kinh tế xanh”. Khi không được nhận thức đầy đủ, thì
tính đồng thuận trong xã hội sẽ không đạt được, do vậy sẽ khó thực hiện.
Hai là, sự khác biệt về cách thức tiến hành giữa nền kinh tế truyền
thống – "Nền kinh tế nâu” với mô hình mới – "Nền kinh tế xanh”, cùng những thay
đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế cần phải bắt đầu từ đâu, như
thế nào? Hiện nay, cũng chưa được làm rõ được các vấn đề này trong bối cảnh
phát triển kinh tế Việt Nam.
Ba là, "Nền kinh tế xanh” gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, các
bon thấp, tăng trưởng xanh, đầutư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế
gắn với phục hồi môi trường… trong khi thực tế, công nghệ sản xuất ở Việt Nam
hiện nay phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn. Do đó, việc thay
đổi công nghệ mới phù hợp với "Nền kinh tế xanh” là thách thức không nhỏ nếu
không có trợ giúp của các nước có công nghệ cao trên thế giới.
Bốn là, huy động nguồn vốn cho thực hiện mục tiêu "Xây dựng nền
kinh tế xanh”. Mặc dù Việt Nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo, nhưng tích
lũy quốc gia so với các nước đã phát
triển còn quá thấp. Đây là thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong quá
trình triển khai nền kinh tế xanh.
Năm là, cơ chế chính sách hướng tới thực hiện "Nền kinh tế xanh” ở
Việt Nam hiện nay gần như chưa có, trong khi trên thế giới cũng mới đề xuất
hướng tiếp cận. Việc rà soát lại cơ chế chính sách liên quan và sửa đổi bổ dung
cho phù hợp với mô hình phát triển mới theo hướng cơ cấu lại ngành kinh tế và
hướng tới nền kinh tế xanh là thách thức không nhỏ.
ĐỊNH HƯỚNG
THỰC HIỆN "NỀN KINH TẾ XANH” Ở VIỆT NAM
Để thực hiện nền kinh tế xanh ở
Việt Nam, những định hướng cơ bản sau đây cần thực hiện:
1.Để xây dựng được một lộ trình với các chương trình hành động ưu
tiên, cần thấm nhuần quan điểm về kinh tế xanh và định vị Việt Nam trong nền
kinh tế xanh toàn cầu với những lợi thế có thể có được của Việt Nam. Vì vậy,
cần tạp trung tiếp cận sớm những kiến thức xanh và công nghệ sạch của cộng đồng
khoa học thế giới, đầu tư vào giáo dục cho phát triển bền vững, khuyến khích kỹ
năng kiến tạo của người Việt Nam.
2.Tập trung tuyên truyền, giáo dục định hướng thay đổi nhận thức
trước đây của xã hội từ nền "Kinh tế nâu” sang "Kinh tế xanh” để tạo một sự
đồng thuận cao trong xã hội, từ lãnh đạo đến người dân và doanh nghiệp. Trong
hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, đổi mới giáo trình, bài giảng theo hướng tiếp
cận phát triển nền kinh tế xanh. Nâng cấp nội dung "Kinh tế môi trường” và
"Kinh tế tài nguyên thiên nhiên” truyền thống theo hướng giảng dạy "Kinh tế
xanh”.
3.Chuyển đổi sang nền kinh tế xanh cần phải tăng cường năng lực cho
bộ máy nhà nước ở các cấp về các kỹ năng phân tích thách thức, xác định cơ hội,
đặt ưu tiên cho các hoạt động, huy động nguồn lực, thực hiện chính sách và đánh
giá tiến độ. Hơn nữa, cũng phải có kế hoạch đào tạo cán bộ trong bộ máy hành
chính vè kinh tế xanh, tăng trưởng xanh vì phát triển bền vững ở mọi cấp, từ
Trung ương đến địa phương, đặc biệt là những phương pháp đo lường tiến bộ và
đánh giá tài sản tự nhiên của nền kinh tế xanh quốc gia. Hạch toán Xanh (Green
Accounting), hay Hoạch toán Tái sản toàn diện (Inclusive Wealth Accounting) là
những công cụ đã có trên thế giới, Việt Nam cần tiếp cấn sớm.
4.Đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ trong nghiên cứu, hợp tác
nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề trong nội hàm của "Nền kinh tế xanh”, như:
sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao
ít năng lượng, công nghệ giảm thiểu phát thải khí nhà kính; hạn chế tối đã gây
ô nhiễm môi trường; phục hồi hệ sinh thái tự nhiên.
5.Chú trọng quy hoạch tổng thể, quy hoạch đất đai cho phát triển đô
thị, phát triển giao thông, khu công nghiệp, khu chế xuất, các công trình phúc
lợi xã hội theo hướng dành quỹ đất đủ cho phát triển cây xanh, hồ nước và các
công trình hạ tầng kỹ thuật môi trường theo quy định tiêu chuẩn quốc tế. Cần
đặc biệt quan tâm đến nguy cơ vừa mất đất canh tác, vừa có tính trạng đất canh
tác bị suy thoái do các phương thức canh tác lạc hậu, thiếu tính bền vững.
6.Cải cách hệ thông thuế, trong đó tập trung thuế tài nguyên và xem
xét lại thuế môi trường hướng tới phát triển "Nền kinh tế xanh” được điều chỉnh
thông qua công cụ tài chính và thuế khóa nhằm khuyến khích tiết kiệm và sử dụng
hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên quý hiếm, bảo vệ môi trường.
7.Đối với chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần có sự đổi mới, xem xét lại và
hoàn thiện chỉ tiêu GDP xanh, cải tiến hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) phản
ánh đủ các chỉ tiêu tính toán môi trường trong hạch toán cân đối tài khoản quốc
gia.
8.Rà soát, xem xét lại cơ chế chính sách đã có liên quan đến dịch vụ
hệ sinh thái và đầu tư cho phát triển rừng thời hạn vừa qua, gắn phát triển
rừng với xóa đói giảm nghèo trên cơ sở phát huy hiệu quả thể chế "Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”; những ưu thế của công cụ kinh tế liến quan
đến chi trả dịch vụ môi trường rừng, bổ sung và hoàn thiện công cụ này triển
khai trong cả nước.
9.Dừa vào tiêu chí quốc tế, như dự tính của UNEP, là đầu tư công
toàn cầu chiếm 2% GDP cho phát triển kinh tế xanh, Việt Nam cần tổng kết xem
trường thời gian vừa qua, mức độ đầu tư cho môi trường ở Việt Nam còn thiếu hụt
bao nhiêu, để tiếp tục bổ sung và hoàn thiện phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
10.Tích cực hợp tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng nền kinh tế xanh ở
Việt Nam, huy động các nguồn lực hỗ trợ của quốc tế, nhất là nguồn vốn đầu tư
2% GDP toàn cầu cho phát triển kinh tế xanh.
11.Điều hành kinh tế vĩ mô, kĩh thích tăng trưởng dựa vào tiêu dùng nội
địa; từng bước thúc đẩy tiêu dùng trong nước để phát triển kinh tế, thông qua
tăng lương cho người dân; và đặc biệt là nâng cao thu nhập cho người nông dân,
tăng cường xây dựng chế độ bảo hiểm xã hội; nới ỏng tiền tệ và tăng chi tiêu
cho cơ sở hạ tầng…Việt Nam cũng cần xây dựng những đại bàn trọng điểm của nền
kinh tế xanh ở nhiều vùng, như: coa nguyên Bắc bộ, miền Trung và Tây Nguyên,
hai đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, đặc biệt là đảo Phú Quốc, Việt Nam
cần phải minh chứng rõ rệt mình đang chuyển dịch vào nền kinh tế xanh với những
địa bàn trọng điểm này./.