Đồng thời, báo cáo Thủ tướng
Chính phủ việc hoàn thiện hồ sơ Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030,
tầm nhìn đến năm 2050 trước khi Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thừa ủy quyền của
Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình Quốc hội xem xét, quyết định
theo quy định của pháp luật.
Khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc
Theo nội dung Quy hoạch tổng
thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, quan điểm phát triển là
quán triệt và cụ thể hóa rõ hơn các quan điểm phát triển của Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2021-2030. Phát triển bao trùm, nhanh và bền vững
dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi
xanh và phát triển kinh tế tuần hoàn; Phát huy tối đa lợi thế của các vùng, miền;
phát triển hài hòa giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng
với biến đổi khí hậu và bảo đảm quốc phòng, an ninh; Thị trường đóng vai trò chủ
yếu trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực. Phát triển
nhanh, hài hòa các khu vực kinh tế và các loại hình doanh nghiệp; phát triển
kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Khơi dậy khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường và phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy nhân tố con người, lấy con người là trung tâm,
chủ thể, nguồn lực, mục tiêu của sự phát triển; mọi chính sách đều phải hướng
tới nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của người dân; lấy
giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo
đảm sự phát triển bền vững.
Xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ phải trên cơ sở làm chủ công nghệ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế,
đa dạng hóa thị trường, nâng cao khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế.
Phải hình thành năng lực sản xuất quốc gia để tham gia hiệu quả, cải thiện vị
trí trong chuỗi giá trị toàn cầu. Phát huy nội lực là cơ bản, chiến lược, lâu
dài, là yếu tố quyết định; ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng,
đột phá.
Huy động và sử dụng hiệu quả
các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
Quan điểm về tổ chức không
gian phát triển: phải được tổ chức một cách hiệu quả, thống nhất trên quy mô
toàn quốc, bảo đảm liên kết nội vùng, liên vùng và khai thác lợi thế so sánh từng
vùng, nhằm huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia.
Phát triển có trọng tâm, trọng
điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý, kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực để hình thành vùng động lực, hành
lang kinh tế, cực tăng trưởng thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, bền vững
và hiệu quả; đồng thời, có cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt cho một số địa
bàn khó khăn để phát triển phù hợp và thu hẹp dần khoảng cách với địa bàn thuận
lợi.
Sử dụng hiệu quả, tiết kiệm
tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, khoáng sản; bảo đảm an
ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước; phát triển kinh tế
xanh, kinh tế tuần hoàn; bảo vệ môi trường, bảo tồn thiên nhiên và nâng cao chất
lượng đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi
khí hậu.
Tổ chức không gian phát triển
quốc gia, các vùng, hành lang kinh tế, hệ thống đô thị phải gắn với phát triển
hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại và phát triển hài hòa khu vực đô thị,
nông thôn.
Tổ chức không gian phát triển
quốc gia phải gắn kết giữa khu vực đất liền với không gian biển, vùng trời;
tham gia có hiệu quả vào các hành lang kinh tế quan trọng trong khu vực và quá
trình hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng với các biến động của tình hình thế
giới. Tổ chức không gian các hoạt động quốc phòng, an ninh nhằm bảo vệ vững chắc
chủ quyền, quyền chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Các nhiệm vụ trọng tâm và đột
phá phát triển quốc gia
Theo Nghị quyết, có 4 nhiệm vụ
trọng tâm và đột phá phát triển quốc gia gồm: Một là, hình thành cơ bản bộ
khung kết cấu hạ tầng quốc gia, tập trung vào hạ tầng giao thông, năng lượng,
đô thị, hạ tầng số, bảo vệ môi trường, thủy lợi, phòng chống thiên tai, thích ứng
với biến đổi khí hậu và hạ tầng văn hóa, xã hội.
Hai là, đẩy mạnh cơ cấu lại nền
kinh tế và không gian phát triển, bảo đảm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu
quả. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư
địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng và nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế.
Ba là, phát triển các vùng động
lực, cực tăng trưởng quốc gia quan trọng để hình thành các đầu tàu lôi kéo sự
phát triển của quốc gia. Lựa chọn một số địa điểm, đô thị, vùng có lợi thế đặc
biệt để xây dựng trung tâm kinh tế, tài chính, đơn vị hành chính - kinh tế đặc
biệt với thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội có tính đột phá, có khả
năng cạnh tranh quốc tế cao. Đồng thời có cơ chế, chính sách phù hợp phát triển
khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo để góp phần ổn định chính trị, giữ
vững quốc phòng, an ninh.
Bốn là, hình thành và phát triển
các hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam và Đông - Tây kết nối các cảng biển,
cảng hàng không, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn, các đô thị, trung
tâm kinh tế, cực tăng trưởng. Phát triển các vành đai công nghiệp - đô thị - dịch
vụ tại các vùng động lực, vùng đô thị lớn.
Phát triển các vùng động lực
quốc gia, trên cơ sở các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay, lựa chọn một số địa
bàn có điều kiện thuận lợi nhất để hình thành các vùng động lực quốc gia, bao gồm:
Tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Tứ giác Thành phố Hồ Chí Minh - Bình
Dương - Đồng Nai - Bà Rịa - Vũng Tàu, vùng ven biển Thừa Thiên Huế - Đà Nẵng -
Quảng Nam - Quảng Ngãi và Tam giác Cần Thơ - An Giang - Kiên Giang (bao gồm cả
Phú Quốc) với các cực tăng trưởng tương ứng của mỗi vùng là Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ.
Hình thành và phát triển các
hành lang kinh tế theo trục Bắc - Nam và hướng Đông - Tây dựa trên các tuyến
giao thông đường bộ cao tốc, đường sắt, kết nối các cảng biển, cảng hàng không
quốc tế, cửa khẩu quốc tế, đầu mối giao thương lớn và gắn với các đô thị, trung
tâm kinh tế, cực tăng trưởng. Ưu tiên phát triển các hành lang kinh tế gắn với
vùng động lực quốc gia để thúc đẩy tăng trưởng và hiệu ứng lan tỏa.
Nghị quyết nêu rõ, tổ chức
không gian phát triển theo 06 vùng, gồm: Vùng trung du và miền núi phía bắc, gồm
14 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Kạn,
Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Điện Biên và Hoà Bình. Vùng
trung du và miền núi phía bắc chia thành 02 tiểu vùng Đông Bắc và Tây Bắc.
Vùng đồng bằng sông Hồng, gồm
11 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình và Quảng Ninh.
Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải
miền Trung, gồm 14 tỉnh, thành phố: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung chia
thành 02 tiểu vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ.
Vùng Tây Nguyên, gồm 5 tỉnh:
Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng.
Vùng Đông Nam Bộ, gồm 6 tỉnh,
thành phố: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương, Bình
Phước, Tây Ninh.
Vùng đồng bằng sông Cửu Long,
gồm 13 tỉnh, thành phố: Thành phố Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà
Vinh, Vĩnh Long, An Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc
Liêu và Cà Mau.
Nghị quyết cũng nêu cụ thể định
hướng: Phát triển không gian kinh tế - xã hội; phát triển không gian biển; sử dụng
đất quốc gia; khai thác và sử dụng vùng trời; liên kết vùng; phát triển hệ thống
đô thị và nông thôn quốc gia; phát triển các ngành hạ tầng xã hội; phát triển
các ngành hạ tầng kỹ thuật; sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống
thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu...
Nghị quyết cũng đưa ra các giải
pháp, nguồn lực thực hiện quy hoạch về huy động nguồn lực; cơ chế, chính sách;
khoa học công nghệ; nguồn nhân lực; hợp tác quốc tế./.
Theo Thúy
Quyên
Bộ Kế hoạch và Đầu tư